1.
Lúc ta mười ba tuổi, thông qua mối mai, cha đã đưa ta đến Bùi gia ở thôn Đại Miếu.
Nói dễ nghe thì là “bàn chuyện hôn nhân”, nhưng nói khó nghe thì là “bán con gái”.
Bùi gia đưa năm lượng bạc, cha ta vui mừng khôn xiết, rồi lại đi đến sòng bạc ở huyện thành.
Phu nhân Bùi gia sức khỏe không tốt, Đại lang thân thể cũng yếu, trong nhà còn có tiểu cô ba tuổi và lão thái mẫu tuổi già sức yếu.
Họ mua ta về, một là để cưới thê tử cho Đại lang, đợi ta trưởng thành thì gả cho chàng, hai là để tìm người giặt giũ nấu ăn, chăm sóc cả nhà người già ốm yếu bệnh tật.
Bùi gia tại huyện Vân An chúng ta, từng là gia đình khá giả.
Bùi lão gia khi còn trẻ là người gánh dầu rong bán, cần cù siêng năng.
Sau đó, ông đến Dự Châu học nghề làm đậu hũ từ một vị sư phụ.
Học thành nghề rồi, ông quay về mở quán ở huyện thành, vài năm sau, buôn bán phát đạt, còn thuê một người giúp việc. Cho đến khi ông bệnh mà qua đời.
Phu nhân Bùi gia sinh hạ hai nam hai nữ, khi sinh tiểu cô thì nhiễm hàn, sức khỏe không tốt.
Vì nhiều năm cùng lão gia buôn bán, làm việc sớm tối không ngừng, tay chân mắc chứng tê bại, suốt ngày đau lưng nhức gối.
Còn Đại lang từ nhỏ đã yếu đuối, vốn đã có bệnh, lại nhiễm phổi lao.
Cha chàng vừa mất, người làm công cũng tự ra mở quán, bán đậu hũ riêng, việc kinh doanh của cửa hàng tất nhiên cũng sụp đổ. May mắn là nhà họ vẫn còn chút của cải.
Đại lang đến tuổi đàm hôn, nhưng vốn đã bệnh nặng, đại phu nói bệnh lao này đe dọa tính mạng, còn dễ lây nhiễm. Nhà thường dân, không ai muốn gả con gái cho chàng, nhưng nhà ta thì khác, mẹ ta đã sớm qua đời, cha lại là kẻ cờ bạc.
Ta từ năm mười ba tuổi vào Bùi gia, một khắc cũng không ngơi nghỉ, giặt giũ nấu ăn, chăm sóc lão thái mẫu, đắp thuốc cho đầu gối phu nhân, dỗ tiểu cô ba tuổi ngủ…
Đại lang nhà họ Bùi đêm khuya đốt đèn đọc sách, ho không ngừng, ta cũng đi nấu nước củ cải cho chàng uống. Mỗi lần như vậy, chàng đều áy náy nói với ta: “Tiểu Ngọc, nàng đã bận rộn cả ngày rồi, về nghỉ ngơi đi.”
“Không mệt đâu, Đại lang. Lúc ở nhà ta còn phải lên núi chặt củi, xuống ruộng cày bừa nữa, bình thường không hề nhàn rỗi, đã quen rồi.” Ta xua tay.
Đại lang đã mười bảy tuổi, từng học ở tư thục, là một thiếu niên thanh tú yêu thích đọc sách. Chàng đã tham gia kì thi huyện và kì thi hương, đạt được danh hiệu đồng sinh, nhưng tiếc rằng vì sức khỏe nên không thể tiếp tục tham gia kì thi viện.
Người đọc sách luôn khiến người ta kính trọng, ta từ chàng mà không chỉ học được cách viết tên mình, còn nhận biết được không ít chữ. Hai năm sau, khi ta tròn mười lăm tuổi, phu nhân tặng ta một chiếc vòng ngọc, nói muốn chuẩn bị hôn sự cho ta và Đại lang.
Ta không có ý kiến gì, nhưng Đại lang không muốn. Khi đó, chàng đã bệnh nặng, thường chưa nói hết câu đã ho ra máu.
Chàng nói với phu nhân: “Thân thể của con, con tự biết, e rằng không thể, đừng làm hại Ngọc nương. Nàng trong lòng con cũng giống như tiểu Đào, con luôn coi nàng là muội muội.”
Bùi phu nhân khóc đến ngất đi, tỉnh lại liền hỏi ta, có còn nguyện ý gả cho Đại lang nữa không?
Ta vừa lau nước mắt vừa gật đầu: “Khi xưa người mua con, chẳng phải là để làm thê tử của Đại lang hay sao?”
Bùi phu nhân khóc không ngừng: “Ngọc Nương à, đừng trách ta, cả nhà ta đều trông cậy vào con rồi.”
Ta thành thân với Nhị lang nhà họ Bùi.
Không không không, phải nói rằng Nhị lang nhà họ Bùi thay thế ca ca mà bái đường với ta, bởi lúc đó Đại lang đã gần đất xa trời, yếu đuối đến mức không thể xuống giường.
Ta đến Bùi gia hai năm, đó là lần đầu tiên ta gặp Nhị lang.
Người lớn hơn ta hai tuổi, tướng mạo đoan chính, dáng vẻ như cây ngọc thụ.
Ngay từ khi Bùi lão gia còn sống, đã đưa Nhị lang đi tòng quân.
Luật lệ Đại Sở quy định, nam tử mười lăm tuổi có thể tòng quân, theo nguyên tắc ba năm cày cấy, một năm tích trữ, bất kể giàu nghèo, đến hai mươi tuổi đều phải đăng ký với quan phủ.
Nhiều gia đình khi bị chọn tòng quân, thường là khóc lóc thảm thiết, sợ rằng ra trận trước mặt sẽ bị thương hoặc mất mạng.
Nhị Lang nhà họ Bùi không giống vậy, người còn chưa đầy mười lăm tuổi, đã được Bùi lão gia nhờ người đi cửa sau, báo sai tuổi, ép người đi tòng quân.
Cũng không thể trách Bùi lão gia nhẫn tâm, Bùi Nhị Lang khác với ca ca, từ nhỏ đã không an phận, cùng một đám người lưu manh ở ngoại thành phía tây, đi khắp nơi làm điều gian xảo, gây họa khắp nơi.
Khi Tiểu Đào năm tuổi còn đang chơi đùa với bùn đất, thì đã nghe nói Nhị Lang năm tuổi đã biết trộm gà nhà hàng xóm, lấy cắp rau và trái cây cúng dường của chùa.
Tóm lại, đó là một kẻ phóng túng ngông cuồng, đã gây ra không ít chuyện.
Cho đến một lần Nhị lang lâu ngày không về nhà, nửa đêm đứng bên giường Bùi lão gia, toàn thân đầy máu, nói rằng mình lỡ tay đánh chết người, hỏi ông ấy phải làm sao.
Bùi lão gia sợ hãi, trong đêm vội vàng mang quà cáp hậu hĩnh đến cho những người quen biết ở nha môn, nhờ người giúp đỡ, tán gia bại sản hơn nửa, vài tháng sau thì đưa Bùi Nhị lang đang trốn trong nhà đi tòng quân.
Khi ta thành thân với Đại lang, đó là lần đầu tiên người về nhà sau bốn năm trong doanh trại.
Tuổi trẻ chí khí ngút trời, đôi mày dài thanh tú, khác hẳn vẻ văn nhã của Đại lang, Nhị lang trời sinh mũi cao môi mỏng, khóe môi hơi trễ xuống, ánh mắt sâu thẳm và sắc bén, gương mặt lạnh lùng kiêu ngạo.
Dưới sự chủ trì của Bùi phu nhân, Nhị lang thay ca ca mặc hỷ phục, môi mím chặt, vô cùng không tự nhiên mà bái đường cùng ta.
Kết quả là đêm đó, Đại Llang không qua khỏi, máu ho ra nhuộm đỏ khăn tay như đóa hoa, làm sao cũng không cầm được.
Lại chống đỡ thêm hai ngày, chàng ấy nói với mẹ mình: “Hôn sự giữa con và Ngọc Nương không tính, sau khi con chết, hãy ký hưu thư cho nàng, đừng để lỡ dở cả đời nàng.”
Khi Đại lang mất, Bùi phu nhân khóc đến chết đi sống lại, ta đờ đẫn đứng một bên, cầm bát thuốc đắng chát mà không biết phải làm sao, trong đầu chỉ vang vọng câu nói của Đại lang——
“Sáng còn là kẻ điền viên, tối lên đường đến triều đình, tướng sĩ vốn không phân biệt giai cấp, nam tử phải tự cường.”
“Chớ nói nho bào làm lỡ đời, sách vở không phụ lòng người, đắc đạo thì giúp đời, thất thế thì giữ thân mình.”
Bùi Nhị lang nắm tay ca ca, lau vết máu trên khóe miệng chàng, trong tay ta vẫn còn nắm chặt một viên đường, tan chảy dính ướt trong lòng bàn tay.
Nửa năm sau, Bùi phu nhân cũng đi theo.
Một cơn phong hàn đã lấy đi mạng sống của bà, bà ra đi rất gấp gáp, bệnh mấy ngày, ngủ một giấc rồi qua đời.
Vài tháng sau, Bùi Nhị lang lại xin nghỉ phép về nhà, lên núi thăm viếng mộ cha mẹ và ca ca.
Cha ta nghe tin người về, lập tức đến cửa, nhờ người thay huynh trưởng ký hưu thư cho ta.
Bùi Nhị lang không nói hai lời liền ký ngay.
Tiết Thủ Nhân mặt mày hớn hở, đánh xe lừa, cố kéo ta lên xe…
“Con gái à, cha không cờ bạc nữa rồi, cha giờ đang làm ăn chân chính, cha đã mua được con lừa, làm nghề xe kéo. Con rể xấu số của cha đã mất gần một năm, con mới mười sáu tuổi, ở lại đây để làm gì? Nhà ta đã làm tròn trách nhiệm rồi, con hãy theo cha về, sau này cha sẽ nhờ người tìm cho con một mối tốt.”
Ta ngồi trên xe lừa, đầu óc rối bời, bị ông kéo đi. Nửa đường, ta hỏi:
“Cha thật sự không cờ bạc nữa chứ?”
“Thật sự không cờ bạc nữa.”
“Vậy cha thề đi, nếu cha lừa con, thì trời đánh thánh đâm, chết không toàn thây, tay chân thối rữa, chết rồi bị vứt ra bãi tha ma không ai thu nhặt, rồi bị chó hoang xé xác…”
“Tiết Ngọc! Con làm phản đấy à! Có đứa con nào lại nguyền rủa cha mình như thế không?”
Tiết Thủ Nhân tức giận, ta chỉ cười lạnh một tiếng: “Không cờ bạc nữa? Cha là kẻ nghiện cờ bạc, lời cha nói có đáng tin không? Còn cái gì là mối tốt, cha chỉ muốn lừa con về để bán lần nữa. Trước đây con còn nhỏ không có đường lui, giờ vẫn muốn dùng trò này để gạt con, cha đi lừa ai khác đi.”
Nói xong, xe lừa nhẹ bỗng, ta nhảy xuống, cầm túi đồ, không ngoảnh lại mà đi thẳng, phía sau chỉ còn nghe tiếng cha chửi rủa.
Suy nghĩ một lúc, ta lại đi thêm mười dặm, rồi quay trở lại thôn Đại Miếu.
Thôn Đại Miếu nằm dưới chân núi Cửu Bình, có khoảng trăm hộ dân. Bùi gia ở đầu làng phía tây, trước cổng sân là hàng rào bằng tre, ta đã quây một mảnh vườn nhỏ, trồng mấy cây ngọc lan.
Chiều tối, nông trang nhỏ yên tĩnh, trời còn vương chút nắng hoàng hôn như máu.
Tiểu Đào, đứa trẻ tết hai bím tóc rối, đang ngồi trước cửa khóc nức nở.
Bên cạnh nó là thái mẫu tuổi đã cao, hai bà cháu ngồi cùng nhau, thái mẫu run rẩy chống gậy, cẩn thận nhìn nó—
“Nhị Nha, con đừng khóc nữa, con há miệng to như thế, ta sợ lắm.”
“Nhị Nha, ta lại tè ra quần rồi, con có thể giúp ta thay không?”
“Hu hu hu, tại sao bà lại tè ra quần nữa chứ?”
“Giờ không phải lúc nói chuyện này, con có thể giúp ta thay quần không?”
“Hu hu hu, con không biết làm.”
“Vậy con có thể vào bếp nấu một bát mì tạp không?”
“Hu hu hu, ca ca chẳng phải đã đi nấu rồi sao?”
“Ai da, hắn có ích gì chứ, đến vợ cũng không giữ được, nếu không phải do hắn, chúng ta sẽ không lâm vào tình cảnh này.”
“Hu hu hu, bà ơi, con muốn tẩu tẩu, con nhớ tỷ ấy.”
“Đừng khóc, bà đã có chủ ý rồi, đợi trời tối chúng ta sẽ bỏ nhà mà đi, nhà này không ở được nữa, tên khốn đó không phải người tốt.”
…
Khi ta quay lại, Tiểu Đào đang khóc thét, ôm lấy ta không buông, thái mẫu đứng cạnh nhìn ta với vẻ đáng thương—
“Ta tè ra quần rồi, vẫn chưa thay được.”
Sau khi an ủi Tiểu Đào một lúc lâu và giúp bà cụ thay quần, ta mới đứng dậy đi vào bếp tìm Bùi Nhị lang.
Lúc đó, người đang nấu ăn, lửa trong bếp bốc cháy, nước trong nồi đã sôi, người đứng trước thớt vẫn đang loay hoay với thau bột.
Bùi Nhị lang đứng thẳng người, lưng giữ thẳng, trên má dính chút bột, lòng bàn tay và mu bàn tay đều bết bột, nhìn có vẻ điềm tĩnh nhưng lại lộ rõ vẻ lúng túng.
Căn bếp vốn được dọn sạch sẽ, giờ nồi niêu bát đĩa vứt lung tung, ta thở dài một tiếng: “Nhị thúc, để ta làm cho.”
Bùi Nhị lang quay đầu lại, ánh sáng trong phòng không rõ ràng, trên mặt người hiện lên vẻ ngạc nhiên, lông mày rậm khẽ nhướng lên, đôi mắt đen láy, nhanh chóng lấy lại vẻ bình tĩnh, mím môi bước ra ngoài.
Nấu xong bát mì tạp, ta bưng chậu sành đặt lên bàn trong sân, rưới thêm dầu mè thơm vào bát của Tiểu Đào và thái mẫu.
Chờ hai bà cháu vui vẻ ăn xong, ta mới đi về chính phòng ở phía tây , thấy cửa chưa đóng, nên đứng ngoài cửa rèm gọi: “Nhị thúc, ăn cơm thôi.”
Tấm rèm đã phai màu, nhìn có vẻ đã nhiều năm, gạch trên nền nhà được quét sạch nhưng vẫn thô kệch, cũ kỹ.
Trong phòng tối, rèm vén lên, bước chân của Bùi Nhị lang vang lên khe khẽ, trong yên tĩnh, lộ ra bóng dáng với đôi vai gầy, người cao ráo, tựa như tùng bách lạnh lùng.
Gương mặt góc cạnh rõ ràng, đôi mắt sắc lạnh như băng giá, cũng như trăng lạnh, chỉ khiến người ta cảm thấy xung quanh trở nên ảm đạm, mang theo ánh sáng lạnh lẽo.
Bùi Nhị lang có dáng vẻ tuấn tú, nhưng đối với người khác lại như có sự xa cách từ trong cốt tủy, bất chợt nhìn vào đôi mắt sâu thẳm ấy, ta không khỏi cảm thấy căng thẳng, hai tay trong tay áo vô thức siết chặt—
“Tiểu cô còn nhỏ, thái mẫu cũng cần người chăm sóc, Nhị thúc nếu trở về quân doanh, đã nghĩ xong cách nào an bài cho họ chưa?”
Giọng ta nhẹ nhàng, giọng người lại trầm thấp, cũng rất đỗi thâm trầm, chậm rãi nói: “Ta định nhờ cậy Chu gia ở thôn Tây Pha.”
Tim ta thắt lại lần nữa.
Bùi gia có một tiểu thư đã gả vào thôn Tây Pha.
Đại tỷ tên Bùi Mai, là con gái lớn Bùi gia, lớn hơn Đại lang ba tuổi.
Khi Bùi lão gia còn sống, Bùi Mai đã gả cho đại công tử của Chu lí trưởng thôn Tây Pha.
Lí trưởng là hương thân, Chu gia là nhà giàu có nhất trong mười dặm xung quanh.
Làm thiếu phu nhân nhà lí trưởng, chăm sóc tiểu muội và tổ mẫu bên nhà ngoại đương nhiên là không vấn đề gì.
Khéo thay, ta từ nhỏ cũng lớn lên ở thôn Tây Pha.
Biết Chu gia tuy giàu có, trong nhà có kẻ hầu người hạ, nhưng lí trưởng lại là người coi trọng tiền bạc, còn thê tử của ông ta cũng hống hách, thường ngày đối xử với tá điền thuê đất chẳng ra gì, luôn mắng mỏ.
Khi Bùi lão gia còn sống, Bùi Mai thường về nhà mẹ đẻ, vì tiền bạc trong tay Chu gia bị kiểm soát chặt chẽ, phu quân cũng không kiếm được tiền, thi tú tài mấy lần không đậu, suốt ngày chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt.
Thiếu phu nhân Chu gia, muốn rủng rỉnh tiền bạc mua sắm quần áo đẹp và son phấn, còn phải nhờ nhà mẹ đẻ.
Nhưng từ khi Bùi lão gia mất, cửa tiệm trong thành cũng đã bán, Đại lang sức khỏe không tốt, giữ lại chút của cải, Bùi Mai muốn xin tiền thì Bùi phu nhân cũng không còn dễ dãi nữa.
Thấy không xin được tiền, lại phải nghe Bùi phu nhân càm ràm, Bùi Mai dứt khoát không quay về nữa.
Ba năm ta ở Bùi gia, chỉ gặp nàng khi Đại lang và Bùi phu nhân qua đời.
Lần cuối gặp, nàng mặc chiếc áo trắng trà ôm sát người, trên áo thêu một vòng lan hoa tinh xảo, vô cùng tao nhã.
Khi vào cửa chịu tang, nàng khẽ vuốt mớ tóc vấn, rồi nhẹ nhàng chắp tay ở eo, khóc lên một tiếng—
“Mẹ ơi, con gái đến muộn rồi.”
Giọng nói buồn bã dịu dàng, nhưng động tác lại không hề lơ là, khi dùng khăn lau nước mắt, nàng còn nhấn nhẹ phấn thơm ở cánh mũi.
Bùi Mai có làn da rất trắng, trên mặt không thiếu phấn mịn và má hồng, dù khóc cũng không làm nhòe đi lớp trang điểm của nàng.
Thật khó để tưởng tượng, một thiếu phu nhân danh giá với cử chỉ đầy uyển chuyển như vậy, thời còn thiếu nữ lại từng giúp nhà bán đậu hũ trong thành.
Bùi Nhị lang nghĩ thế nào ta không biết, chỉ biết rằng giao Tiểu Đào mà ta đã chăm sóc ba năm và thái mẫu đã mất trí nhớ cho Chu gia, ta không an tâm.
Vì thế ta nói với Bùi Nhị Lang: “Nhị thúc muốn giao cho Chu gia, lí trưởng là quan liêm, vì mặt mũi chắc cũng sẽ không từ chối, nhưng không biết Nhị thúc có rõ hay không, dù đại tỷ là dâu cả Chu gia, nhưng nhiều năm nay chỉ sinh được một đứa con gái, phu nhân Chu gia đã nhiều lần oán trách, phu quân của nàng ấy cũng đã nạp thiếp từ lâu, cuộc sống của nàng thực ra cũng không dễ dàng gì.”
Bùi Nhị lang im lặng một lúc, chưa kịp để hắn lên tiếng, ta lại nói: “Đã như vậy, chúng ta cũng không cần phải làm phiền đại tỷ nữa đúng không? Hưu thư ta sẽ giữ trước, Nhị thúc cứ yên tâm về quân doanh, ta sẽ ở lại chăm sóc gia đình, đợi sau này Tiểu Đào và thái mẫu đều ổn định rồi, ta ra đi cũng không muộn.”
Lời nói của ta rất chân thành, biểu cảm của Bùi Nhị Lang ẩn trong bóng tối, sâu thẳm trong đôi mắt người hư có một tầng sương mù, nặng nề và tĩnh lặng.
Người không nói gì, ta lại hỏi: “Nhị thúc nghĩ sao?”
Lại một lúc im lặng, yết hầu như nghẹn lại, cuối cùng nhị lang đáp, giọng có chút khàn: “Được.”
Một chữ “được”, ta thở phào nhẹ nhõm, người cũng thả lỏng hơn—
“Cơm đã nấu xong, Nhị thúc đến ăn đi, kẻo nguội.”
2.
Vài ngày sau, Bùi Nhị lang trở về doanh trại. Chẳng bao lâu sau khi người rời đi, ta đã đưa cha ta, Tiết Thủ Nhân, ra trước quan phủ.
Nguyên do là khi ta và Tiểu Đào đang giặt đồ bên bờ sông ở đầu thôn, cha đã lợi dụng thời cơ mang theo một gói bánh giòn, giả bộ tử tế đến nhà Bùi, lừa thái mẫu đến xem con gái, rồi lật tung mọi thứ trong nhà.
Hộp tiền giấu trong tủ quần áo, mười ba lượng sáu đồng, cùng với chiếc vòng ngọc mà Bùi phu nhân để lại, toàn bộ gia tài, đều bị ông trộm sạch.
Sau đó ta mới biết, quả đúng như ta đã đoán, chuyện không cờ bạc nữa chỉ là giả dối, chiếc xe lừa cũng là đồ thuê, ông muốn lừa ta về để gả cho lão già mở tiệm da trong huyện thành, và ông đã nhận được năm lượng bạc tiền sính lễ từ nhà người ta.
Ngày hôm đó, trong cơn phẫn nộ, ta cầm dao bếp đi bộ hai mươi dặm đến huyện thành. Tại sòng bạc, ta bắt giữ lão già gầy gò, chỉ còn da bọc xương, rồi đưa ông ta đến quan phủ.
Đại Sở phụng đạo hiếu, con cái mà kiện cáo cha mẹ, bị coi là “nghịch”, kẻ nghịch tặc sẽ bị xử trảm. Tiết Thủ Nhân từ lúc bước vào cửa công đường, tay đã bắt đầu run rẩy không ngừng.
Vị quan huyện râu dê sau khi nghe xong lời bẩm báo của ta, mắt nheo lại, nói: “Thật là một người cứng cỏi, ngươi dù giờ là phụ nhân Bùi gia, nhưng cũng từng là nữ tử mang họ Tiết. Nếu kiên quyết kiện cha mình, trái với đạo hiếu đệ, sau khi bản quan xử án, sẽ phạt ngươi hai mươi trượng, ngươi vẫn muốn kiện chứ?”
“Khởi bẩm đại nhân, tiểu nữ muốn kiện Tiết Thủ Nhân ở thôn Tây Pha, huyện Vân An, quận Đào Châu, đồng mưu cùng người trong sòng bạc, bán phát thê vào ổ điếm, khiến mẹ ta, Lý thị, phải thắt cổ tự vẫn, cướp đoạt sính lễ của bà ấy.”
“Ngươi có bằng chứng không?”
“Lúc Lý thị qua đời, tiểu nữ mới bảy tuổi, không có chứng cứ.”
“Vậy thì chỉ là lời nói không bằng chứng.”
“Vậy tiểu nữ xin kiện Tiết Thủ Nhân tội bán nữ nhi hai lần, phá vỡ quy tắc của quan phủ.”
“Cha ngươi đã hứa gả ngươi cho nhà Bùi, có mai mối bảo chứng, không thể coi là mua bán, còn tiền lễ của lão Dương nhà tiệm da cũng đã được trả lại, không thể tính là bán nữ nhi hai lần, tội không thành.”
“Vậy tội trộm cắp tiền bạc của Bùi gia giữa ban ngày, có phải là tội của ông ta không?”
“Đương nhiên, công đường này chính trực, bản quan sẽ không thiên vị ai, nhưng Tiết Thủ Nhân trộm cắp, cũng vì ngươi là phụ nhân nhà Bùi, có lý do, như vậy bản quan sẽ phán ông ta trả lại tiền cho Bùi gia là được, thế nào?”
“Ông ta không có tiền, đã đánh bạc hết rồi.”
“Vậy để ông ta lập giấy nợ, có quan phủ làm chứng, không thể chối cãi.”
“Nếu ông ta cố tình chối cãi thì sao?”
“Bản quan sẽ trị tội lừa đảo, phạt đánh đòn và giam vào ngục!”
Lời nói đến đây, quan huyện đã rất bực bội, chưởng bút vang lên thật lớn:
“Bãi đường!”
Tiết Thủ Nhân đã lập giấy nợ, còn ta nhận hai mươi trượng. Nếu không phải trong lúc hành hình được một viên quan dịch tâm địa nhân từ đổi cho, chắc hẳn ta phải nằm trên giường cả mấy tháng trời.
Viên quan dịch ấy họ Triệu, tên là Triệu Cát, ông ấy nương tay vì quen biết Bùi lão gia, Bùi Trường Thuận. Hắn nói từ khi Bùi lão gia còn trẻ bán đậu hũ ở huyện thành, hai người đã quen biết, là chỗ thân tình cũ.
Ta thật may mắn, Triệu đại thúc cũng thật tốt, không những bỏ ra mười lăm văn tiền giúp ta thuê một chiếc xe lừa về nhà, còn tặng ta một bình thuốc mỡ, dặn dò ta về nhà nhớ dưỡng thương.
Dù ông ấy ra tay nhẹ, nhưng hai mươi trượng ở quan phủ cũng khiến ta đau đớn tột cùng, mồ hôi lạnh tuôn như mưa, sắc mặt tái nhợt.
Từ khi bị đánh đến lúc nằm trên xe lừa, Tiết Thủ Nhân luôn theo sau ta, lí nhí giải thích: “Cha không có bán mẹ con, chẳng phải đã nói rồi sao, vì nợ nần sòng bạc, người ta đến nhà đòi, mẹ con rõ ràng có ít bạc sính lễ, nhưng không chịu lấy ra, ai ngờ bà ấy tính khí cứng rắn, chỉ dọa vài câu rằng sẽ bán bà ấy vào ổ điếm, thế mà bà ấy lại thắt cổ tự vẫn…”
“Cút!”
“Cha đưa con đến Bùi gia chỉ để tìm cho con một chốn tốt, không phải bán con, còn Dương lão ở tiệm da, tuổi có lớn một chút, nhưng nhà cửa giàu có, cha chỉ muốn con có cuộc sống tốt…”
“Cút!”
Ta dồn hết sức lực chửi ông ta, mỗi một cử động làm toàn thân đau đớn, khiến mặt ta càng tái nhợt hơn.
Mất mẹ từ năm bảy tuổi, một thời gian dài ta luôn tự hỏi, con người sống vì điều gì?
Ta đã tận mắt thấy mẹ mình treo cổ trên xà nhà, đôi chân lơ lửng đong đưa.
Tiết Thủ Nhân từng kinh hãi, cũng từng khóc lóc hối hận.
Nhưng sự hối hận đó chẳng kéo dài được một năm, ông ta lại lao vào cờ bạc.
Nói đến việc bán vợ bán con, ông ta chưa bao giờ thừa nhận.
Có lẽ trong lòng ông ta, ta nên cảm kích ông ta, vì lúc đó ông ta vẫn nhớ đến mình có một đứa con gái, thắng bạc sẽ mua bánh bao cho ta, thua bạc thì còn biết đi xin cơm thừa canh cặn về nhà.
Khi con người yếu đuối, không có lựa chọn, thường rơi vào trạng thái mơ hồ.
Sau này ta dần lớn lên, rồi sau đó đến Bùi gia, đột nhiên ta nhận ra một điều.
Đời này lắm đau khổ, sống được đã là một phúc lớn.
Nếu đã là phúc lớn, lại còn hỏi sống vì điều gì, thật sự là quá ư viển vông.
Sống là để sống cho tốt.
Như Đại lang, muốn học hành, muốn buổi sáng còn là nông dân, buổi tối bước vào cung điện.
Như ta, muốn an cư lạc nghiệp, không lo về cuộc sống.
Tuy nhiên, đời người là như thế, chỉ có sống mới có hy vọng, mới có thể tìm được đường đi.
Đại lang không còn cơ hội nữa, nhưng ta thì có.
…
Sau khi trở về Bùi gia, ta nằm trên giường suốt một tháng.
Trong thời gian đó, Tiểu Đào vừa nấc cụt vừa vụng về nghe ta chỉ dẫn mà lo toan mọi việc.
Về sau, ngay cả việc thay quần cho thái mẫu, nó cũng có thể vui vẻ làm được.
Thậm chí, vì việc đó mà nó còn cảm thấy tự hào, hễ rảnh là nhìn chăm chăm vào thái mẫu.
Thái mẫu: “Nhị Nha, con cứ nhìn ta mãi làm gì, đừng nhìn ta như thế, ta sợ lắm.”
“Thái mẫu, người khát không, uống chút nước nhé.”
“Ta không khát.”
“Không, người khát mà.”
Đợi đến khi ta gắng gượng đứng lên được, trong nhà đã không còn gì để ăn.
Vườn rau trống trơn, thùng gạo cạn sạch, chuồng gà cũng trống hoác.
Hai con gà mái đẻ mà ta khó nhọc nuôi nấng, đã bị Tiểu Đào âm thầm đem đến nhờ Ngô góa phụ hàng xóm giết thịt.
Ngô góa phụ khi ấy còn lạnh lùng trề môi, mắt trắng dã: “Nhà ngươi điều kiện thế nào mà còn đòi ăn gà chứ.”
Tiểu Đào vui vẻ nói: “Trong nhà còn một con nữa, vài hôm nữa lại đến nhờ người giết thịt, người đừng thèm thuồng, cái đít gà sẽ để lại cho người.”
Ngô góa phụ: “…”
Ngô Thúy Liễu là một góa phụ trẻ ngoài hai mươi, tuy miệng lưỡi cay nghiệt nhưng thật ra tấm lòng không xấu.
Khi ta nằm liệt giường không thể dậy nổi, nàng còn giúp đỡ chúng ta, hai lần mang bánh lớn và cháo loãng sang. Nhưng cũng chính nàng xúi giục Tiểu Đào, nói rằng đại tỷ nó, Bùi Mai, là thiếu phu nhân nhà lí trưởng Chu gia, nay chúng ta sắp không còn gì để ăn, Tiểu Đào có thể đến tìm nàng vay chút bạc.
Tiểu Đào không biết nghĩ sao, quả thật lén lút giấu ta, đi bộ hơn mười dặm đường, hỏi thăm đến tận Chu gia ở thôn Tây Pha. Chiều hôm đó, nó ủ rũ, cúi đầu mà trở về.
Con bé ngồi xổm xuống đất, vừa lau nước mắt vừa hỏi: “Tẩu tẩu, Bùi Mai thật sự là đại tỷ của chúng ta sao? Có phải mẹ lúc sinh ra nàng vô ý để nàng rơi xuống hố phân không? Bề ngoài thì bóng bẩy nhưng bên trong lại thối tha.”
Sau này ta mới biết, khi Tiểu Đào đến, Bùi Mai đã tỏ ra như một phu nhân nhà giàu, đầu tiên là giả bộ tiếp đón, mời ăn điểm tâm, rồi nói những lời bóng gió xa gần. Tiểu Đào còn nhỏ, không hiểu những điều Bùi Mai nói, chỉ biết cúi đầu ăn điểm tâm cùng với con gái bốn tuổi của Bùi Mai, hoàn toàn không để tâm đến những lời nàng nói.
Bùi Mai nói như gảy đàn tai trâu, dần dần mất kiên nhẫn, tức giận đập bàn: “Ăn ăn ăn! Chỉ biết ăn! Nhìn cái bộ dạng nghèo nàn của ngươi xem, ngươi có nghe rõ lời ta nói không? Ta quyết không bao giờ giữ lại ngươi và thái mẫu, đừng mơ tưởng! Số bạc cuối cùng của nhà họ Bùi, ta không lấy một đồng, ai lấy thì ngươi tìm người đó mà đòi. Ngươi nói với Tiết Ngọc đừng diễn trò với cha nàng ta nữa, diễn xong rồi laị muốn đem ngươi và thái mẫu cho ta nuôi, đúng là mơ tưởng!”
Bùi Mai vừa mắng xong, thấy Tiểu Đào ngơ ngác nhìn mình, lại làm con gái nàng là Uyển Nương khóc òa lên vì sợ, vội vàng bảo tỳ nữ đưa con bé đi dỗ, rồi bỗng chốc đổi sắc mặt, dùng khăn tay che miệng ho khẽ, dịu dàng nói: “Tiểu Đào, ngươi còn nhỏ, không hiểu lòng người hiểm ác. Tỷ tỷ làm vậy là vì muốn tốt cho ngươi. Ngươi và thái mẫu nhất định phải ở lại nhà họ Bùi, nếu không Tiết Ngọc sẽ phá hết gia sản nhà chúng ta.”
Dù Tiểu Đào lúc về có khóc nhưng tối đó nó vẫn từ trong ngực lấy ra nhiều loại điểm tâm. “Tỷ ấy muốn nói gì thì nói, ta lấy thì ta cứ lấy, không thể nào đi tay không mà về.”
Thái mẫu ở bên gật đầu liên tục: “Tiểu Đào đúng là có chí khí.”
Nghe lời khen, Tiểu Đào trở nên phấn chấn: “Lần sau ta sẽ lại đến, thái mẫu, con sẽ dẫn người theo.”
Thái mẫu: “Được, chúng ta phải có chí khí.”
“Chúng ta nhất định phải có chí khí!”
Ta: “…”
Sau khi vết thương lành, ta quyết định hàng ngày đi bộ hơn hai mươi dặm đến huyện thành tìm việc làm.
Tiểu Đào kéo tay ta hứa hẹn, yêu cầu ta phải về nhà trước lúc mặt trời lặn, nếu không nó sẽ bỏ thái mẫu lại mà đi tìm người.
Đến huyện thành, ta mới biết, những quán ăn và trà lâu không thiếu người làm, cũng không thuê phụ nữ để làm việc vặt. Những gia đình giàu có thì có một số việc lặt vặt, người quản gia hô một tiếng ở Hẻm Sư Tử, liền một nhóm phụ nữ tranh nhau làm, chen chúc không lọt vào nổi.
Ta đi mấy ngày, mặt dày lần lượt hỏi từng tiệm xem có việc gì làm không. Cuối cùng giúp một tiệm thuốc tán thuốc hai ngày, rồi khi Cửa hàng Vải Kinh Vân sắp xếp kho, ta lại đến phụ giúp chuyển hàng một ngày.
Tôn chưởng quầy của cửa hàng vải rất kỳ lạ, bỏ qua những người khỏe mạnh trẻ trung, lại bỏ tiền thuê mấy cô gái chuyển hàng. Có một cô gái cũng giống ta, nghi ngờ trong lòng, không kìm được hỏi ông ta.
Kết quả, Tôn chưởng quầy cười khẽ: “Tấm vải trong tay ngươi là vải lụa Phù Quang, mỗi tấm có giá mấy chục lượng bạc. Trong kho còn có lụa hoa trang trí bằng kim tuyến và lụa tuyết, đều rất quý giá. Những người làm việc thô ráp không dám dùng, các ngươi phải cẩn thận, từ từ mà chuyển, thà va vào các ngươi cũng không được làm hỏng tấm vải này.”
Mấy chục lượng bạc một tấm, phải là người nhà của Phủ Doãn Đào Châu hoặc các quan chức địa phương mới đủ khả năng mặc chúng.
Ta thầm xuýt xoa, ngắm nghía qua lớp vải, thấy thấp thoáng bên trong là màu sắc rực rỡ, lòng không khỏi rung động. Nhưng sau khi lãnh tiền công, mua mấy cái bánh bao trên đường về nhà, cũng quên mất mớ lụa Phù Quang kia.
“Tẩu tẩu, bánh bao còn nóng hổi, thật thơm thật ngon.”
Tiểu Đào cong mắt cười, vui vẻ chia cho thái mẫu, mỗi người một cái, rồi đưa cho ta bốn cái còn lại.
Ta nhận lấy, gói kỹ rồi đặt lên bàn: “Ngày mai muội và thái mẫu hâm nóng lại, mỗi người ăn hai cái nữa.”
“Tẩu tẩu, sao tẩu không ăn?” Tiểu Đào bĩu môi, không vui.
Ta vỗ bụng: “Buổi trưa ta đã ăn ở chỗ chưởng quầy cửa hàng vải ba bát, đến mức mặt hắn đen cả lại.”
“Ngọc Nương, con thật có chí khí!”
“Tẩu tẩu, tẩu thật có chí khí!”
Tiểu Đào và thái mẫu đồng thanh, giơ ngón cái lên, tự hào về ta.
Ta khiêm tốn vẫy tay: “Cũng tạm, lần sau có cơ hội ta sẽ cố gắng ăn bốn bát.”
Trước mặt họ, tất nhiên không thể bộc lộ, thực ra trong lòng ta rất lo lắng. Kiếm được quá ít, nay ba người chúng ta ăn bữa trước lo bữa sau. Khi Nhị Lang rời nhà, còn dặn dò rằng lương bổng sau này sẽ được gửi về mỗi hai tháng một lần.
Ta thật có lỗi với ngưởi, khi người đi, toàn bộ tiền đều để lại, còn cung kính cúi chào, dặn dò: “Tiểu muội và thái mẫu, xin nhờ tẩu ở nhà chăm sóc.”
Nhị Lang nói với giọng nghiêm nghị, từ trước tới giờ người chưa bao giờ gọi ta là “tẩu”, khi ấy ta xúc động đến đỏ mặt, kiềm chế sự ngại ngùng, cũng nghiêm túc cúi chào lại: “Nhất định không phụ lòng nhị thúc phó thác.”
Kết quả là, người ta mới đi chưa lâu, ta đã chăm sóc tiểu muội và thái mẫu đến mức phải ăn gió Tây Bắc rồi.
Trong lòng đầy nỗi lo, càng thêm bất an, sáng hôm sau, khi trời chưa sáng, ta đã dậy đi đến huyện thành.