Lang Hoài Hữu Ngọc

Chương 2



3.

Hôm ấy thật không gặp may, cả buổi sáng ta cũng chẳng tìm được việc gì để làm, mãi đến gần trưa mới thấy một tiệm sách đang gọi người chép sách. Chép đủ mười tờ mới được một văn tiền, nhưng người trong tiệm lại nói rằng yêu cầu cũng không cao, chỉ cần chữ viết ngay ngắn là được.

Ta nghe thấy thế, trong lòng bỗng nhiên động, biết rõ bụng dạ chẳng được tốt mấy, vẫn quyết tâm bước vào.

Trong tiệm chật kín người, khoảng mười mấy người đều đang cắm cúi chép sách, duy chỉ có ta là cứ ngồi gãi đầu bứt tai. Ta đã tự tin quá rồi, dẫu rằng đại lang có dạy ta nhận mặt chữ, nhưng thực tế chữ ta viết cong queo, xiên vẹo, gặp phải mấy chữ khó hiểu, ta và chúng cứ ngỡ như người xa lạ, không ai nhận ai.

Bên cạnh ta, một công tử mặc áo vải màu nâu, đang cẩn thận chép sách, ta không kiềm được mà liếc nhìn qua, nét chữ y chang đại lang, bút pháp thật mực thước, chữ viết như rồng bay phượng múa, sinh động như hiện ra trước mắt.

Ta thở dài nhẹ giọng nói: “Ngươi viết thật đẹp.”

Công tử ấy ngẩng đầu nhìn ta, ánh mắt chúng ta bất ngờ chạm nhau, y lập tức đỏ mặt. Ta nhận ra mình đã quá đường đột, vội vàng nói: “Xin lỗi, ta không cố ý, chỉ muốn hỏi ngươi, chữ này đọc như thế nào?”

Ta chỉ vào một chữ trên bản mẫu, hắn ban đầu sững sờ, rồi nói: “Đây là chữ “Trùng”, nghĩa là như chim hạc bay cao vút ngàn dặm, một đường thẳng lên trời cao.”

Giọng nói của y trong trẻo, nghe cũng dễ chịu, ta không kìm được mà hỏi tiếp: “Ta thấy mọi người đều chép cùng một nội dung, cớ sao tiệm sách lại cần chép nhiều như vậy?”

Công tử ấy ngó quanh một lượt, rồi hạ thấp giọng nói: “Đây là tập thơ mới của Khương Vương từ kinh thành, đang làm mưa làm gió khắp Hoa Kinh, các châu phủ đều muốn tỏ lòng trước Khương Vương, cô cứ yên tâm mà chép, chữ viết có xấu một chút cũng không sao, tiệm sách này chỉ làm cho có để trình lên phủ Đạo Châu mà thôi, chứ thực ra cũng không bán được nhiều đâu.”

“Ồ, thì ra là vậy.” Ta an tâm ngồi lại, mỉm cười với y, “Cảm ơn ngươi.”

Công tử ấy có vẻ xấu hổ, vội đáp: “Không có gì đâu, cô nương đừng ngại.”

Ta vốn không phải là người có số mệnh kiếm tiền dễ dàng, người ta chép sách như gió, ta thì cặm cụi mãi mới được năm tờ.

Cuối cùng, thật sự không chịu nổi nữa, bụng ta bắt đầu kêu òng ọc. Tiệm sách rất yên tĩnh, nên tiếng kêu ấy nghe thật rõ ràng, ta ngượng quá không dám ngẩng đầu lên, cố gắng giữ bình tĩnh tiếp tục chép sách.

Một lát sau, bất ngờ có một bàn tay đưa qua, trên tay là một chiếc khăn sạch sẽ, trong khăn có một miếng bánh hấp.

Chính là công tử ấy.

Ta ngẩng lên nhìn hắn, hắn nhẹ nhàng nói: “Nếu cô nương không chê, có thể dùng tạm để đỡ đói.”

Lúc đói cồn cào, ai mà đi chê chứ.

Ta cũng có chút xấu hổ, nhưng cuối cùng cơn đói đã lấn át tất cả, ta đưa tay nhận lấy bánh.

“Cảm ơn, ta thật sự đói lắm, không khách khí với ngươi nữa.”

Ngày hôm ấy, chủ tiệm sách nhìn chằm chằm vào mười tờ giấy ta chép được, khóe miệng giật giật mấy lần, cuối cùng không tình nguyện đưa cho ta một văn tiền.

Còn ta, không chỉ khóe miệng giật, mà cả cổ tay cũng mỏi nhừ vì cố gắng kiếm được một văn tiền này.

Ráng chịu thêm nửa tháng nữa, có lẽ nhị thúc sẽ gửi tiền về rồi.

Nhị thúc đang đóng quân ở biên cương, thuộc loại binh trung đẳng, một ngày được bảy mươi văn tiền, một tháng thì nhận được hai lượng một tiền.

Nghĩ tới đây, ta bèn lên huyện thành, tìm đến Triệu đại thúc, người làm trong nha môn, dày mặt hỏi mượn ông ấy một quan tiền.

“Ta nể mặt Bùi lão gia đã khuất mới cho cô mượn đó, cô phải nhớ trả lại đấy, ta cũng không dễ dàng gì, nhà còn có đứa con gái bị què.”

“Triệu thúc cứ yên tâm, ta nhất định sẽ trả, Tiết Ngọc luôn giữ lời.”

Thời gian trôi qua gần hai mươi ngày, cuối cùng nhị thúc cũng gửi về bốn lượng bạc.

Khi ta nhận được bạc từ tay quân dịch ở trạm dịch, nước mắt suýt nữa rơi xuống.

Ta mua một con gà quay và một miếng thịt kho ở huyện thành, mang về nhà cắt thành miếng, đặt lên đĩa, lúc đưa vào miệng, Tiểu Đào khóc òa lên: “A a a, thơm quá! Lưỡi ta sắp rụng rồi! Cảm ơn nhị ca! Cảm ơn tổ tiên mười tám đời nhà ta!”

Khi trong tay đã có chút bạc, ta không còn đi huyện tìm việc nữa, mà ở nhà loay hoay với chiếc cối xay nước cũ kỹ bị bỏ quên ở góc sân.

Cối xay treo lơ lửng trên giá đỡ, bánh dưới gắn trên trục, nước đẩy làm xoay, có thể nghiền nát ngũ cốc.

Khi phu nhân còn sống, ta thường nghe bà kể đi kể lại về tay nghề làm đậu hũ của nhà họ Bùi trong lúc thoa thuốc lên đầu gối cho bà.

Nước giếng ngâm đậu, đậu xay thành hỗn hợp sệt, giã đến khi kêu răng rắc, rồi lọc qua rây lớn và vải mịn hai lần.

Đun nước trong nồi lớn trên lửa to, rồi hạ lửa nhỏ đun kỹ, khi bề mặt nước đậu đông lại và nhăn nheo thì tắt lửa. Thạch cao đã nghiền thành bột mịn, pha với nước rồi đổ vào nồi đất cùng với nước đậu đã nấu chín…

Chợ Nam phố Sư Tử, phố xá tấp nập, gian hàng bày bán đầy đường, gần như trải dài đến cầu châu.

Ngày hôm đó, khi mượn tiền của Triệu đại thúc tại huyện, ta đã khóc suốt đường về nhà họ Bùi.

Đồng tiền ấy kiếm được thật khó khăn, trong lòng áp lực chồng chất khiến ta không khỏi hoài nghi rằng mình thật vô dụng.

Khi nảy ra ý định buôn bán tại phố Sư Tử, điều đầu tiên ta nghĩ đến là bán đậu hũ.

Bởi vì trong nhà họ Bùi vẫn còn giữ nguyên bộ dụng cụ làm nghề từ ngày xưa, có thể tiết kiệm được không ít công sức.

Phu nhân từng nói, làm đậu hũ tưởng chừng dễ dàng nhưng muốn làm ra đậu hũ trắng mịn màng, cũng như nước tương đi kèm đúng vị, mỗi bước đều cần sự tỉ mỉ.

Thời gian ngâm đậu phải tùy theo mùa, nồi đất không được tráng men…

Lần đầu tiên ta làm đậu hũ, khi múc ra vài miếng để trong bát, Tiểu Đào còn hào hứng hơn cả ta: “Tẩu tẩu! Tẩu tẩu! Tẩu giỏi quá, sao tẩu cái gì cũng biết vậy!”

Nhưng cô bé cũng chỉ hào hứng được hai ngày, rồi nhìn ta dậy từ tờ mờ sáng để xay đậu, miệng lại bắt đầu lẩm bẩm: “Nhị ca đã gửi tiền về, tiết kiệm chút cũng đủ ăn uống, làm gì mà cực khổ thế này.”

“Không thể mãi trông chờ vào nhị ca muội được. Thúc ấy ở ngoài quân ngũ, có chút dư dả thì tốt, gửi hết tiền về nhà, thúc ấy sẽ gặp nhiều khó khăn, làm gì cũng không tiện. Con người sống trên đời, ngoài chuyện ăn no mặc ấm, còn cần tích lũy một ít tiền bạc, để cuộc sống thêm phần vững vàng, lòng dạ mới yên ổn.”

“Tẩu tẩu, tẩu tích góp tiền để làm gì?”

“Để làm gì ư? Nhiều lắm, ta muốn cho muội đi học, may áo mới cho muội và thái mẫu, ngày ngày đều được ăn thịt gà nướng và thịt kho.”

Ta bấm ngón tay tính toán, rồi nói với cô bé: “Con người phải hướng lên cao, nếu những điều này đều thành, sau đó ta còn muốn dành cho muội một phần của hồi môn.”

“Tại sao lại dành cho ta của hồi môn, sao tẩu không tự mình chuẩn bị?”

“Ta đã gả đi rồi mà, ta là tẩu tẩu muội đó.”

“Vậy sao không để dành của hồi môn cho nhị ca, huynh ấy lớn tuổi hơn ta, lẽ ra phải để dành trước cho huynh ấy.”

“… Với tài năng của nhị ca muội, thúc ấy chắc không cần chúng ta lo của hồi môn đâu.”

“Tại sao, huynh ấy rất lợi hại sao?”

“Rất lợi hại chứ, ta nghĩ thúc ấy sau này chắc chắn sẽ làm nên chuyện, biết đâu có thể trở thành một đại tướng quân.”

Vừa xay đậu, ta vừa cười nói với cô bé. Tiểu Đào có vẻ đăm chiêu, rồi hỏi tiếp: “Còn ta thì sao, tẩu nghĩ ta sau này sẽ làm gì?”

“Muội à, biết đâu lại vào cung làm nữ quan, giống như Tần Lương Ngọc hay Phùng Liêu gì đó.”

“Ta lợi hại vậy sao?”

“Đúng rồi, muội rất lợi hại, rất có tương lai.”

Nói nhiều, đến chính ta cũng bắt đầu tin tưởng: “Đến khi đó muội ở kinh thành có dinh thự lớn, nhớ đón ta lên hưởng phúc, ta cũng được nhờ phúc của muội, tìm bảy tám đứa nha hoàn, tiểu tư để hầu hạ.”

“Ta sẽ tìm cho tẩu một trăm đứa!”

Tiểu Đào hào hứng, mặt mày rạng rỡ, liền đến giúp ta làm việc: “Tẩu tẩu, nhanh tích lũy tiền đi.”

Vài ngày sau, khi ta cảm thấy tay nghề đã vững, liền đựng hai bát đậu hũ trong giỏ, ngồi xe lừa đến nhà Triệu đại thúc ở ngoại ô huyện. Trả xong tiền, ta nói với thúc ấy về ý định mở sạp, mời thúc ấy nếm thử đậu hoa.

Kết quả, thúc ấy nói: “Đậu hũ rất mềm mịn, nhưng hương vị chưa đủ, vẫn chưa bằng tay nghề của Bùi lão gia trước đây.”

Ta ngẩn người, mãi cũng không hiểu mình đã làm sai ở đâu.

Triệu thúc nói: “Đậu hũ chính tông của nhà họ Bùi tất nhiên có hương vị không ai sánh kịp, nếu không những người từng làm việc ở tiệm nhà họ Bùi cũng không thể chỉ mở sạp được một năm rồi phải đóng cửa. Người dân huyện này đều đã từng nếm thử đậu hũ của Bùi lão gia, khẩu vị rất kén chọn. Phố Sư Tử cũng không phải chưa từng có người bán, nhưng buôn bán ế ẩm, một bát mì mười lăm văn, một bát đậu hũ hai mươi văn, nếu hương vị không qua được, mọi người thà đi ăn mì còn hơn.

“Giá đậu sống đã cố định, bán rẻ thì không có lời, bán hai mươi văn một bát thì phải ngon lành, đó mới là lý do tiệm nhà họ Bùi ngày trước kinh doanh phát đạt.”

Chưa kịp khởi đầu đã gặp trắc trở, nhưng ta không bỏ cuộc.

Hôm sau, ta dẫn Tiểu Đào đến thôn Tây Pha tìm nhà họ Chu. Nếu nói ở huyện này còn ai biết cách làm đậu hũ của nhà họ Bùi, người đó nhất định là Bùi Mai.

Không ngờ rằng, chúng ta lại bị từ chối ngoài cửa, đến mặt Bùi Mai cũng không gặp được.

Tiểu Đào giận dữ nói: “Thật keo kiệt! Bủn xỉn! Chẳng phải chỉ lấy vài lần bánh của tỷ ấy thôi sao!”

“… Vài lần? Ta đã bảo không được đến nhà họ lấy bánh nữa, sao muội còn đến đó?”

“Ừm thì, ta đến rồi, ăn một ít, mang về một ít, lần cuối còn bị bà mẹ chồng tỷ ấy bắt gặp, tẩu không thấy sắc mặt bà ta khó coi thế nào đâu, ta còn lịch sự hỏi bà ta có phải bị bệnh không nữa.”

“… ”

Do hành vi ngang ngược của Tiểu Đào, Bùi Mai không ra mặt mà chỉ sai một nha hoàn với đôi mắt đặt tận trên đầu, bước ra nhìn chúng ta bằng ánh mắt khinh khỉnh—

“Đừng như miếng cao da chó bám dính lấy phu nhân nhà ta nữa. Phu nhân đã nói rồi, cái gì mà công thức, phu nhân không biết. Dù có biết cũng không nói cho người ngoài đâu. Ai mà thèm làm ăn với các người, buồn cười chết đi được. Các người có biết thân phận của phu nhân nhà ta không? Sau này đừng có đến nữa!”

Nha hoàn vừa dứt lời, Tiểu Đào lập tức tỏ vẻ lo lắng: “Ai chết cơ?”

“Cái gì mà ai chết? Ngươi nói vớ vẩn gì vậy?” Nha hoàn giận dữ quát.

“Chẳng phải ngươi nói buồn cười chết người sao? Tỷ tỷ ta đang ở nhà này, ta không hỏi sao được. Còn nữa, ngươi đừng có trợn mắt nhìn ta bằng lỗ mũi! Lỗ mũi của ngươi to quá, ta sợ đấy!”

Tiểu Đào chỉ vào mũi nha hoàn, khí thế còn hung hăng hơn cả cô ta.

Ta nắm lấy cổ áo sau của Tiểu Đào kéo cô bé đi, nhưng cô bé vẫn không chịu thôi, quay đầu lại hét với nha hoàn: “Mũi ngươi hình như bị lệch rồi, nhớ tìm đại phu khám đi, vốn đã xấu rồi…”

Ý định làm ăn của ta tạm thời bị gác lại, lòng ta cũng theo đó mà u sầu vài ngày.

Cho đến hôm đó, con gái của Triệu thúc là A Hương đến nhà họ Bùi. Nàng ấy đi xe lừa từ huyện đến, mang theo bánh vừng của Ngũ Hương Trai cho chúng ta. Ta có chút bất ngờ, vì nàng ấy di chuyển không thuận tiện, là một người bị què.

A Hương là một cô gái có khuôn mặt thanh tú, tính tình trầm lặng. Hôm đến nhà Triệu thúc trả tiền, ta đã gặp nàng, nhưng chỉ là chào hỏi qua loa, không hề trò chuyện.

Theo lời Triệu đại thúc, từ khi nàng ấy bị ngã què chân trái lúc mười một tuổi, thì nàng liền không thích ra ngoài, cũng không thích giao tiếp với người khác.

Nhưng bây giờ nàng ấy lại đến đay, lời nói cũng rất thẳng thắn, hỏi tôi: “Ngày đó cô nói chuyện với cha ta, ta đã nghe hết rồi. Cô định bỏ cuộc sao? Không muốn mở tiệm bán đậu hũ nữa à?”

Ta vội vàng lắc đầu, kể cho nàng ấy tình hình hiện tại.

Nàng ấy nói: “Sao cô không hỏi Nhị lang, có lẽ Bùi Mai thật sự không biết. Bùi bá bá là người làm ăn, vất vả nửa đời người, công thức này chắc chắn chỉ truyền lại cho con trai, dù sao con gái cũng là người sẽ gả đi.”

Ta sững người, không nghĩ đến điều này, rồi lại ngập ngừng nói: “Nhị thúc cũng chưa chắc đã biết, người đi xa từ lâu rồi…”

“Không hỏi sao biết? Thử hỏi xem.”

A Hương dường như còn quan tâm đến chuyện này hơn ta, thúc giục ta viết thư cho Nhị lang ngay lập tức, khi nàng ấy trở về huyện sẽ tiện đường mang đến bưu trạm.

Dưới ánh mắt khích lệ của nàng ấy, ta đành phải lấy giấy bút ra.

Nội dung bức thư đại ý là—

[Ta muốn làm chút buôn bán ở huyện, theo cách phu nhân từng chỉ dạy, nhưng đậu hũ ta làm ra vẫn chưa đúng vị. Nhị thúc có biết cụ thể phải làm như thế nào không? Có thể chỉ dẫn đôi chút chứ?]

Đồng thời kèm theo một công thức làm đậu hoa mà ta đã viết ra.

A Hương nhìn qua rồi nhăn mày, nói chữ ta xấu cũng được thôi, nhưng nội dung thì quá thẳng thắn, trong lời lẽ không hề có chút tình cảm nào giữa người thân.

Vì vậy, nàng ấy bảo ta thêm một câu cuối—

[Biên cương lạnh giá, nhị thúc nhất định phải giữ gìn sức khỏe, mong người bình an trở về nhà.]

Viết xong, nàng ấy liền mang thư đi.

Ban đầu ta không hiểu tại sao nàng ấy lại quan tâm đến chuyện này như vậy, cho đến khi nàng ấy rời đi mới nói: “Ta và cô bằng tuổi, cũng đều mất mẹ từ sớm, hơn nữa ta lại là một người què.”

Ta chưa kịp hiểu rõ ý, nàng ấy lại nói tiếp: “Cha ta luôn lo lắng tìm cho ta một mối hôn sự tốt, nhưng ta biết, ta có thể tìm được nhà tốt nào đây? Con trai của nhà tốt sao lại chịu cưới một người què. Nhưng cha ta không tin, ông ấy nói đã dành dụm được trăm lượng bạc làm của hồi môn cho ta, nhà chồng nghèo một chút cũng không sao, chỉ cần phu quân đối tốt với ta là được.”

“Ông đã lớn tuổi rồi mà vẫn ngây thơ như vậy, con trai nhà nghèo muốn cưới một người què, chẳng lẽ không phải vì trăm lượng bạc này hay sao.”

“Tiết Ngọc, nếu cô muốn bán đậu hũ, ta có thể dùng của hồi môn để giúp cô mở tiệm. Cô đừng vội từ chối, ta không có ý đồ gì khác, cũng chẳng mong nhiều, ta không tham lam, chỉ muốn tìm một lối thoát, không muốn gả cho những kẻ ở sau lưng gọi ta là đồ què.”

4.

Ta cho rằng A Hương đã đánh giá ta quá cao.

Bức thư gửi đi đã một tháng, mắt thấy sắp đến ngày Bùi Nhị lang gửi lương từ quân ngũ về, nhưng vẫn không có chút động tĩnh nào.

Ta không khỏi nghĩ rằng, trong mắt người ngoài, ta là quả phụ của nhà họ Bùi, nhưng trong mắt Bùi Nhị lang, ta có lẽ chỉ là người ngoài.

Rốt cuộc, giấy hưu thư cũng đã ký rồi. Đã là người ngoài, sao có thể đem công thức làm đậu hũ quan trọng như thế mà nói cho ta được.

Tiểu Đào không nghĩ vậy, cô bé chống hông, ngẩng cao đầu, chỉ cho ta thấy hai lỗ mũi nhỏ: “Tẩu sai rồi, nhị ca ta tương lai sẽ làm đại tướng quân, còn ta tương lai sẽ làm nữ quan, nhà họ Bùi sau này sẽ có quan phủ và dinh thự lớn ở Hoa Kinh, trăm nha hoàn tiểu tư, bước lên điện thiên tử, ai còn quay lại bán đậu hũ nữa, nên cái gọi là công thức đó, vốn không quan trọng!”

Ta: ……

Đang lúc ta định bỏ cuộc, chuẩn bị chuyển sang làm việc khác, thì bức thư của Bùi Nhị lang cùng với bốn lượng bạc được gửi đến.

Ta không ngờ, chữ của người lại đẹp đến vậy, nét bút mạnh mẽ, xuyên thấu qua cả giấy.

Càng không ngờ rằng, người thật sự đã nói cho ta biết công thức.

Đậu hũ của nhà họ Bùi ngon, thứ nhất là nhờ nước dùng, thứ hai là nhờ tam hợp dầu.

Trước khi Bùi lão gia học làm đậu hoa, ông vốn là người bán dầu.

Đậu hũ của người khác, trước khi đem ra bàn sẽ cho vài giọt dầu mè thơm vào bát.

Còn dầu của nhà họ Bùi là dầu mè thơm, dầu gà, dầu heo, ba loại này được chế biến bí mật.

Bùi Nhị lang đã viết cho ta công thức tam hợp dầu này.

Người còn nói rằng, nước dùng có thể cho thêm lòng gà, vị sẽ càng thêm đậm đà.

Khoé mắt ta có chút nóng lên, người thật lòng tin tưởng ta, coi ta như tẩu tẩu.

Từ khi nhận được bức thư này, mọi việc ta làm đều trở nên thuận lợi hơn nhiều.

Trước tiên, ta tìm được một cửa tiệm vừa ý tại phố Nam, đầu đường Sư Tử, gần cầu châu.

Tiệm không lớn lắm, trước đây là một quán rượu nhỏ, có tiền đường và hậu viện.

Tiền đường có bàn ghế và quầy hàng, có thể kinh doanh, hậu viện có giếng nước và bếp, ngoài bếp còn có một gian phòng chứa đồ ở đông sương.

Ta hài lòng với nơi này vì trên tầng hai của tiệm còn có hai phòng. Cầu thang nằm ở góc hậu viện, phòng trên tầng hai ánh sáng tốt, cửa sổ hướng ra phố Sư Tử, cũng có thể nhìn thấy cảnh nhộn nhịp quanh cầu châu.

Trước khi A Hương đề nghị mở tiệm, ta vốn định bày sạp hàng.

Nhưng nếu có lựa chọn tốt hơn, ai lại muốn ngày ngày đi đi về về bốn mươi dặm, đẩy xe đến huyện bày sạp bán hàng.

Dù rằng trong tay có chút tiền, có thể thuê xe lừa, dậy sớm thức khuya bận rộn, để thái mẫu và Tiểu Đào ở nhà, khó tránh khỏi không chăm sóc chu đáo.

Giờ đây thật tốt, chúng ta có thể chuyển cả nhà đến ở trong tiệm.

Mở tiệm này, gần như tiêu hết tiền sính lễ của A Hương.

Ban đầu ta có chút lo lắng, sợ thua lỗ, nhưng A Hương lại không sợ, nàng ấy điềm nhiên nói: “Sợ gì, cha ta cũng đã nói vị đậu hhũ này không khác gì xưa, đậu hoa nhà họ Bùi, còn lo gì chuyện không bán được?”

Nàng ấy nói đúng, hai năm sau, chúng ta đã thu hồi hết vốn liếng.

Tiệm chỉ mở bán vào buổi sáng, vì đến trưa là bán sạch hết rồi.

Trong tiệm không đủ chỗ, còn phải bày thêm vài bàn ở lề đường, ngày nào cũng đông nghẹt người.

Nhờ có Triệu đại thúc, việc chúng ta làm ăn ngoài phố cũng được nha môn những người tuần phố mắt nhắm mắt mở cho qua.

Bận rộn không xuể, đến nỗi A Hương cũng phải lê từng bước đến giúp dọn dẹp.

Triệu đại thúc lo lắng con gái bị bắt nạt, chẳng có việc gì cũng mặc quan phục đi qua lại trên phố Sư Tử.

Tiểu Đào theo chúng ta bận rộn, thái mẫu không có việc gì làm thì ngồi trước cửa tiệm phơi nắng, gặp ai cũng hỏi—

“Ăn chưa?”

Năm thứ hai sau khi tiệm hoàn vốn, ta tìm một trường tư thục, đưa Tiểu Đào đi học.

Đến năm thứ ba, ngoài những chi phí sinh hoạt hàng ngày, ta còn để dành được năm mươi lượng bạc.

Không ai tin, một tiệm đậu hũ nhỏ lại kiếm được nhiều tiền như vậy.

Thực ra từ rất sớm, ta đã viết thư báo cho Nhị Thúc, để người không cần gửi tiền về nữa.

Chớp mắt đã ba năm, trong ba năm này, chúng ta luôn thư từ qua lại.

Lúc đầu là ta nói cho người biết tiệm bắt đầu có lời, người ở trong quân cũng cần chi tiêu, không nên tự khổ sở với bản thân.

Thư gửi đi, người không trả lời, cũng không gửi tiền về nữa.

Bùi Nhị lang là người như vậy, tính cách lạnh lùng đã thấm vào xương cốt.

Khi ta bận rộn với việc kinh doanh, cũng không có thời gian nghĩ đến chuyện khác, cho đến khi một người lính đưa thư của bưu trạm đi qua tiệm đậu hoa, tiện thể hỏi ta một câu: “Tiết Nương tử, cô có muốn gửi áo ấm hay vật dụng giữ nhiệt gì không, bên đó sắp đánh trận rồi, lạnh lắm, chúng ta vài ngày nữa sẽ xuất phát, muốn gửi thì mau mang đến.”

Huyện Vân An thuộc quận Đào Châu, thường ngày tin tức cũng không phải chậm trễ, dò hỏi một chút mới biết, từ đầu năm, các bộ lạc du mục như Man Kim, Thiết Lặc ở vùng phía bắc, liên tục xâm phạm khiêu khích.

Ban đầu chỉ là những trận giao tranh nhỏ lẻ, một khi Đại Sở xuất quân, bọn chúng liền tan biến không dấu vết.

Cho đến gần đây, chúng đã liên minh với nhau, vượt qua biên ải, công hạ Bình thành và huyện Vũ Từ, tàn sát hàng trăm người.

Thiên tử nổi giận, hạ lệnh xuất binh.

Trong hai ngày đó, ta không ngơi tay, mua sắm nhiều da lông và vải vóc, thức trắng đêm khâu may áo lót.

Trong lúc hành quân, bên ngoài phải mặc giáp trụ, để dễ dàng di chuyển, áo lót bên trong không thể quá dày nhưng cũng phải giữ ấm.

Ước chừng thân hình của nhị lang cao tám thước, thân thể cân đối, ta đã khâu may một chiếc áo lót với lớp da lông dày đặc ở lưng và ngực. Lông bên trong ấm áp, mặc sát người chắc chắn sẽ giữ ấm hơn nhiều.

Cùng với bộ hộ gối và áo giáp đã hoàn thành, ta vội vàng gửi đến trạm dịch, mới có thể thở phào nhẹ nhõm.

Cuộc chiến ở biên cương kéo dài gần ba năm.

Theo lời quân sai ở trạm dịch, quân doanh có phát áo bông mùa đông, chỉ là kích thước không chắc đã vừa vặn, bông bên trong cũng không dày, chỉ có thể miễn cưỡng chống lạnh.

Thường thì những binh sĩ có điều kiện, gia đình sẽ gửi áo lót bằng da, da lông ấm hơn áo mùa đông nhiều, khi nhận được ở quân doanh, hẳn sẽ khiến người khác thèm muốn.

Nếu không có điều kiện, ít nhất cũng gửi được một bộ hộ gối và áo giáp.

Quân sai nói, mỗi năm vào mùa đông, thứ được gửi nhiều nhất ở trạm dịch chính là hộ gối và áo giáp.

Nghe vậy, ta không khỏi ngạc nhiên: “Mỗi năm đều gửi sao?”

“Đúng vậy, nương tử không biết đấy, biên cương lạnh lẽo, gió đông như dao cắt, xuyên qua áo quần, chém vào thịt người. Không lạ gì bọn man di phía Bắc hằng năm đều liều mạng chiếm đất của chúng ta, mùa đông đối với chúng là thời khắc khó khăn nhất.”

Ta nhíu mày, không nói gì thêm.

Nhị thúc nhập ngũ từ khi còn trẻ, tính đến nay đã bảy năm, từ khi ta về nhà họ Bùi, chưa từng thấy phu nhân gửi cho nhị thúc bất kỳ vật dụng nào.

Nghĩ đến đây, trong lòng ta không khỏi thở dài.

Năm sau, khi đã có điều kiện hơn, ta đã khâu may cho nhị thúc một chiếc áo lót ấm hơn, cũng làm thêm một bộ hộ gối, bên trong dán đầy lông dày.

Năm thứ ba, ta vẫn làm như vậy.

Khi gửi đồ đi, ta thường kèm theo một phong thư:

“Thái mẫu thân thể khỏe mạnh, Tiểu Đào đã vào học trong tư thục, việc buôn bán của tiệm rất thịnh vượng, gia đình mọi việc đều ổn, nhị thúc không cần lo lắng, mong rằng người bình an trở về.”

“Gia đình mọi việc đều ổn, thái mẫu ăn uống tốt, chỉ là Tiểu Đào học hành không chăm chỉ, nhưng món đậu hoa của tiệm càng ngày càng ngon, hàng xóm đều nói có tay nghề của lão gia khi xưa. Chúng ta bây giờ còn bán thêm canh gà, mười lăm văn một bát, có cả bột mì để nhúng bánh, mùa đông ăn một bát thật ấm áp, đợi nhị thúc trở về có thể thử món này, mong rằng người bình an trở về.”

“Gia đình mọi việc đều ổn, ta thường dẫn thái mẫu đi dạo bên cầu, chỉ là Tiểu Đào khó dạy, trốn học, còn đánh bạn học, đợi nhị thúc trở về hãy dạy bảo nó, mong rằng người bình an trở về.”

Chiến sự ở biên cương căng thẳng, vốn dĩ ta không mong nhận được thư hồi âm của nhị thúc, nhưng năm thứ hai sau khi gửi thư, trạm dịch lại gửi đến cho ta một phong thư của nhị thúc.

Nét chữ rõ ràng là của người, thư chỉ vỏn vẹn một chữ “Tốt”.

Năm thứ ba, vẫn chỉ là một chữ “Tốt”.

Vì nhị thúc, ta rất quan tâm đến chiến sự ở biên cương, thường thông qua Triệu đại thúc để nghe ngóng tin tức từ nha môn.

Năm thứ ba, chiến sự cuối cùng đã kết thúc, Đại Sở toàn thắng, đẩy lùi bọn man di, triều đình lập tức thiết lập khẩu giết hổ ngoài cửa ải.

Hoàng thượng rất vui mừng, hạ lệnh khen thưởng tam quân, luận công hành thưởng.

Mùa đông năm ấy, ta như thường lệ mua da lông và vải vóc tốt nhất, đang may chiếc áo lót cho nhị thúc thì nghe tin binh sĩ biên cương trở về kinh, được đặc ân về nhà thăm thân.

Rồi chỉ sau vài ngày, nhị thúc đã trở về.

Người không trở về một mình, mà còn mang theo khoảng tám chín binh sĩ, cũng mặc giáp trụ và giày quân, cưỡi ngựa chiến oai phong lẫm liệt.

Từ cổng Tây ngoại thành vào thành, đi từ đại lộ huyện thành đến hẻm Sư Tử, tiếng vó ngựa vang lên, thu hút ánh mắt mọi người, họ bàn tán xôn xao.

Giữa trưa, nắng ấm áp.

Ở con phố phía Nam hẻm Sư Tử, tiệm đậu hũ đang đông khách, A Hương đang múc đậu hũ cho khách, ta bận rộn bưng lên bàn.

Khi vừa đặt hai bát lên bàn ngoài phố, bỗng nghe tiếng vó ngựa từ xa đến gần.

Ngẩng đầu nhìn theo hướng phát ra âm thanh, thấy phía trước đám đông lần lượt né tránh, để lộ một hàng binh sĩ.

Con ngựa dẫn đầu dừng lại, người đàn ông cưỡi trên lưng ngựa cao lớn, đứng sừng sững dưới ánh mặt trời, mặc giáp trụ màu đen, áo giáp sáng loáng, phản chiếu ánh sáng khiến ta không thể mở mắt.

Khi nhìn rõ người đó, thấy rõ đôi lông mày kiếm anh tuấn, đôi mắt đen sắc bén dài mảnh, môi mỏng mím lại, đôi mắt nâu sâu thẳm đang lặng lẽ nhìn ta.

Ánh mắt giao nhau, ta phải mất một lúc mới có thể hoàn hồn lại.

Nhị thúc thay đổi nhiều quá.

Ba năm rưỡi, khi người rời đi còn mang dáng vẻ thiếu niên cương trực, nay trở về, dung mạo càng lạnh lùng, bên cạnh vẻ cương nghị nghiêm nghị còn có thêm khí chất của kẻ chinh chiến sa trường, toàn thân toát lên sự sắc bén và thâm trầm của một người đàn ông trưởng thành.

Ngoài ra, còn có sự tàn nhẫn và uy nghiêm tích tụ từ những năm tháng chinh chiến giết chóc.

Đôi mắt lạnh như băng, đen sẫm, chỉ cần liếc qua một cái đã khiến người ta không dám đối diện, trong lòng bất giác run rẩy.

Người xuống ngựa, thân hình cao tám thước, thân hình như ngọc, bên hông mang kiếm, bước về phía ta, bước chân nặng nề và chậm rãi.

Ta chưa kịp để người mở miệng, đã khẩn trương gọi một tiếng: “Nhị, nhị thúc.”

“Ừm.”

Trước đây là ta nói lớn, người nói nhỏ.

Nay lại trái ngược, giọng ta rất thấp, thấp đến mức ta nghĩ ngươi có lẽ không nghe thấy.

Nhưng người đã nghe thấy, còn nhẹ nhàng đáp lại một tiếng.

Dường như còn khẽ cười một tiếng.

Ta không chắc có phải mình nghe lầm không, ngạc nhiên nhìn, kết quả thật sự thấy người khẽ nhếch môi, trong đôi mắt sâu thẳm có chút ánh sáng lấp lánh.

Ta chắc chắn rồi, tiếng “Ừm” vừa rồi của người, thực sự có chứa nụ cười.

Điều này càng khiến ta bối rối, đứng sững tại chỗ.

“Này này! Đây chính là nhị nương của chúng ta.”

Cho đến khi những người đi theo sau người, cũng xuống ngựa, ai nấy đều mặc giáp, to cao vạm vỡ, bước tới chào hỏi ta bằng thái độ vừa vui mừng vừa khách sáo. Lúc này ta mới tỉnh táo lại, vội vàng chào hỏi họ:

“Các vị quân gia không cần đa lễ, tiểu phụ không dám nhận.”

“Không không không, chính là nương tử không cần đa lễ, chúng ta không dám nhận.”

“Nương tử xứng đáng, nếu không nhờ bức thư của nương tử, chúng ta không biết có còn mạng đến quận Đào Châu để ăn bát đậu hũ và canh gà này hay không. Tướng quân đã hứa như vậy, chúng ta thực sự đã đến rồi, dày mặt đến đây, mong rằng nương tử không trách.”

Lời của họ khiến ta không khỏi ngạc nhiên, dù không hiểu rõ sự tình, nhưng ta đã hiểu rằng họ muốn ăn đậu hũ và canh gà, nên ta vội quay vào trong tiệm, vừa đi vừa nói:

“Không bán nữa, không bán nữa, thật xin lỗi các vị hàng xóm, ngày khác ta sẽ bồi tội với mọi người, hôm nay nhị thúc của ta trở về, còn mang theo những nam nhi ưu tú vừa từ biên cương trở về, mong rằng mọi người lần sau hãy đến ăn, hôm nay không thu tiền nữa.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.