Thẩm Vi Lam im lặng.
Đúng lúc ấy, phó tướng của hắn vội vàng đến, ghé sát tai nói nhỏ điều gì đó.
Lông mi hắn khẽ run, cuối cùng ánh mắt lặng xuống, trầm tĩnh đến đáng sợ.
Một lát sau, hắn mỉm cười, giọng ôn hòa dỗ dành Tạ Thanh Nghê đang thấp thỏm:
“Trường công chúa nghĩ nhiều rồi.
Chỉ là hôm nay thấy máu, e không hợp điềm lành.
Trùng hợp biên quan lại cấp báo khẩn, đại hôn đành phải lùi lại vài hôm.”
“Trường công chúa rộng lượng, ắt sẽ thông cảm cho khó xử của ta.”
Tạ Thanh Nghê gượng cười.
Hắn không tiếp tục truy hỏi chuyện năm đó, với nàng, đó đã là may mắn lắm rồi.
Dù hôn lễ bị hoãn, nàng vẫn phải tỏ ra dịu dàng, rộng rãi:
“Tất nhiên rồi.”
Thẩm Vi Lam nhanh chóng rời đi.
Hướng hắn đi, là thiên lao.
Ta biết hắn muốn gặp ai.
Những lời phó tướng nói, ta đều nghe thấy rõ:
“Cửu công chúa vẫn chưa có tung tích,
nhưng phò mã… đã bị bắt ở Ung Châu.”
Bước chân hắn thoáng vội vàng, mang theo nét hoang mang.
Ta chỉ biết thở dài khẽ khàng.
Thì ra… hắn đã tìm được phò mã của ta rồi.
Và có lẽ, đó chính là lý do hắn hận ta nhất.
Ta gượng cười, môi run rẩy đến thảm hại.
Ta theo sau Thẩm Vi Lam, lòng vẫn rối loạn không yên.
Từng mảnh ký ức dần hiện lên, năm ta cùng hắn đến Lương Châu.
Sau khi ta cứu hắn không bao lâu, Tây Nhung nhân cơ hội tiến binh xâm phạm.
Khi ấy, Thẩm gia đã bị diệt, trong thiên hạ chỉ còn ngoại tổ phụ của ta nắm binh quyền.
Một triều đại rộng lớn, lại chẳng còn tướng lĩnh dám xông pha sa trường.
Để khiến ngoại tổ phụ yên tâm dốc sức chống giặc, phụ hoàng ban phong địa cho ta ở Lương Châu.
Mà giữa ta và Thẩm Vi Lam khi đó, tình cảm cũng vô cùng vi diệu.
Có lẽ, hắn đã nhận ra ta thích hắn rồi.
Năm ấy hắn theo ta đến Lương Châu.
Những ngày tháng ở đó, có lẽ là khoảng thời gian ngọt ngào nhất đời ta.
Hắn sẽ đắp chăn cho ta trong đêm gió lạnh,
sẽ làm bánh hải đường cho ta ăn,
sẽ chăm sóc ta suốt đêm khi ta ốm, không rời nửa bước.
Đôi khi ta nghĩ,
nếu ta không phải công chúa, hắn không phải tướng quân,
chúng ta chỉ là một đôi phu thê bình thường,
cùng sống đời yên ả giữa nhân gian, thì tốt biết bao.
Năm đầu tiên ở Lương Châu, ta đúc cho hắn một thanh trọng kiếm.
Hắn từng là thiếu niên tướng quân oai hùng,
cưỡi ngựa bạc, một mình xông pha, chém tướng đoạt cờ giữa trăm vạn quân.
Tiếc thay, nay bị giam bên cạnh ta,
đến cả cầm kiếm cũng không thể.
Nửa năm sau, ta nhận được mật thư của ngoại tổ phụ.
Ông nói, hoàng đế đã nghi ngờ mối quan hệ giữa ta và Thẩm Vi Lam.
Vì lo sợ hắn ôm hận, e sẽ “diệt khẩu” để trừ hậu họa.
Thẩm gia từng bị tru di,
mối sợ hãi ấy chưa bao giờ phai nhạt trong lòng phụ hoàng.
Dù biên cương đang nguy khốn, triều đình không còn tướng tài,
nhưng phụ hoàng vẫn muốn tận diệt Thẩm Vi Lam.
Thời gian ta có thể giành cho hắn,
chỉ còn chừng ấy.
Không bao lâu sau, mật chiếu của phụ hoàng thật sự tới.
Đó là thánh chỉ tứ hôn giữa ta và con trai Lý tể tướng,
đồng thời triệu ta cùng Thẩm Vi Lam hồi kinh.
Hôm ấy là Tiết Hoa Triêu, lễ cầu phúc lớn nhất trong năm.
Lương Châu giáp đại mạc, nhưng thành vẫn rộn ràng như hội.
Ta đi bên hắn trên phố phường đông đúc, lòng lại rối như tơ vò.
Người buôn bán cười niềm nở, nhét vào tay chúng ta một chiếc đèn ngũ sắc,
nói rằng hãy viết điều ước lên đó, treo lên cây, để Hoa thần ban phúc.
Thấy ta do dự mãi không viết, hắn nghi hoặc hỏi:
“Sao thế?”
Ta chỉ khẽ lắc đầu:
“Điều ta muốn cầu… ngay cả Hoa thần cũng chẳng thể ban.”
Hắn mỉm cười, mắt cong cong như trăng non,
y phục trắng tinh, gương mặt thanh nhã đến khiến lòng người run rẩy.
“Điện hạ cứ cầu đi,” hắn nói, giọng dịu dàng.
“Dù trời đất chẳng giúp được,
thì ta, cũng sẽ tìm cách biến điều ước ấy thành thật.”
Trong mắt hắn ánh lên nụ cười dịu dàng, còn ta, chỉ biết lặng nhìn, chẳng thốt nổi một lời.
Ta siết chặt chiếc đèn ngũ sắc, khẽ nói nhỏ:
“Ta đã tìm người thợ giỏi nhất, rèn cho ngươi một thanh trường kiếm. Vốn định đợi đến sinh nhật ngươi sẽ tặng.”
Nhưng giờ đây, có lẽ… ta không còn cơ hội đợi đến ngày ấy nữa.
Thẩm Vi Lam lặng đi thật lâu, giọng khàn đặc, vừa định lên tiếng thì dòng người đi cầu phúc chen qua.
Ta không đứng vững, bị đám đông đẩy lùi vài bước, suýt ngã,
thì có một bàn tay nghịch hướng chen tới, nắm chặt lấy tay ta.
Khoảng cách gần nhất giữa ta và hắn,
chính là mùa Hoa Triêu năm ấy, giữa biển người xô đẩy,
hắn nắm lấy tay ta, không buông.
Giữa dòng người tấp nập, ngàn ngọn đèn rực sáng,
hắn bỗng cúi xuống, khẽ vén tấm khăn che mặt của ta,
và đặt lên môi ta một nụ hôn.
Chỉ thoáng qua như gió,
nhưng ta vẫn nhớ rõ hơi thở hắn hỗn loạn, đôi môi đỏ như lửa.
Gió đêm thổi tung tóc ta, đan quyện vào tóc hắn.
Giọng hắn thấp trầm, run nhẹ nhưng ánh mắt lại sáng đến chói lòng, sáng hơn vạn ngọn đèn nơi nhân thế.
Hắn nói:
“Tạ Thường Miên, ta từng là tướng quân, chưa bao giờ sợ chết.”
“Ta chỉ sợ bản thân có võ nghệ trong người mà dân vẫn lầm than.”
“Ta sợ còn sống ở đời mà chẳng thể che chở người ta muốn bảo vệ.”