Ngày ta trùng sinh, đất Thượng Kinh hoa hạnh giăng đầy lối, hoa lê trắng xóa phủ kín bầu trời.
Kỳ thi Hội sắp đến ngày yết bảng!
Ta lập tức đi tìm phụ thân, giục người mau chóng dẫn gia đinh đến dưới bảng vàng chờ sẵn.
Phụ thân lấy làm lạ: “Bắt rể dưới bảng vàng ư? Chẳng phải con là người coi thường thủ đoạn này nhất, đã sớm từ chối lời đề nghị của phụ thân rồi sao?”
Ta mím môi, mỉm cười không đáp.
Kiếp trước. Phụ thân cũng bắt rể dưới bảng vàng, đưa Thám hoa lang Mạnh Lan Đình vào trong xe ngựa của ta.
Ngắm nhìn gương mặt tuấn mỹ như ngọc thụ của hắn, ta nén lại trái tim đang loạn nhịp, nghiêm trang nói: “Tuy Kỷ gia chúng ta chỉ là hoàng thương, rất cần một tế tử xuất sĩ để làm rạng danh môn đình, nhưng ta cũng không muốn ép buộc người khác. Nếu ngươi không muốn, có thể xuống xe.”
Mạnh Lan Đình nhìn ta chăm chú, khẽ gật đầu, rồi bằng lòng cưới ta.
Ta vui mừng khôn xiết.
Từ đó, ta và Mạnh Lan Đình trở thành một cặp tình nhân được cả Thượng Kinh công nhận. Các vị tiểu thư khuê các không khỏi ngưỡng mộ, dưa hái ép hóa ra lại ngọt đến thế.
Ta chỉ quay lưng về phía họ, khẽ bĩu môi.
Đâu phải ép mà thành. Lòng ta sáng tựa gương, rõ ràng Mạnh Lan Đình là thật lòng thật dạ yêu ta.
Nếu không, một vị lang quân thanh cao, lạnh lùng như hắn, cớ sao lại sáng tinh mơ đã vẽ mày cho ta, suýt nữa bỏ lỡ buổi chầu?
Nếu không, đến khi ngồi ngôi Thủ phụ, được Hoàng đế ban thê thiếp mỹ tỳ, hắn sao có thể lấy cớ “thê tử ở nhà hay ghen” mà dập đầu tạ từ, không dám nhận?
Vậy nên kiếp này, ta vẫn muốn gả cho Mạnh Lan Đình, cùng hắn ân ái hai kiếp người.
Khi ta đến cổng lễ bộ, nơi yết bảng đã trở nên hỗn loạn. Nhiều tân khoa tiến sĩ nhẹ dạ đã bị người ta nhanh tay đoạt mất.
Ta dặn đi dặn lại phụ thân phải nhanh tay một chút, rồi yên lòng ngồi trong xe ngựa, chờ đợi cuộc gặp gỡ định mệnh như kiếp trước.
Thế nhưng, ta đợi suốt một nén hương, vẫn không thấy bóng dáng Mạnh Lan Đình đâu.
Phụ thân mặt mày ủ dột bước vào: “Ôi trời ơi, Trạng nguyên năm nay đã ngoại tứ tuần, Bảng nhãn thì nghe đồn là đoạn tụ. Thám hoa lang đẹp mã nhất thì lại chẳng thèm ra khỏi cửa, ngay cả bảng vàng cũng không ngó tới. Con nói xem, phụ thân biết đi đoạt ai về làm phu quân cho con đây!”
Sao có thể như vậy? Mạnh Lan Đình mồ côi từ nhỏ, gia cảnh bần hàn, khổ học mười năm đèn sách mới có ngày bảng vàng đề tên.
Hắn không phải kẻ tự phụ kiêu ngạo, sao có thể đến cả xem bảng vàng cũng không tới?
Tay ta siết chặt dải cung thao. Trong lòng dấy lên một dự cảm chẳng lành. Lẽ nào… hắn cũng đã trùng sinh, nên biết trước mình sẽ đỗ đạt, thành ra không cần đến xem bảng?
Ta quyết định ôm cây đợi thỏ.
Kiếp trước, các tiến sĩ tụ tập ở Hồng Phúc Lâu uống rượu mừng, chẳng may lầu sập, chết mất mấy người. Trong đó có bạn đồng môn của Mạnh Lan Đình, khiến hắn đau buồn một thời gian dài.
Ta bèn đợi sẵn ở cửa Hồng Phúc Lâu, quả nhiên thấy Mạnh Lan Đình ra sức khuyên can chưởng quỹ, lại dùng trăm phương ngàn kế dụ các tiến sĩ ra ngoài.
Trong khoảnh khắc, tửu lầu sụp đổ, nhưng không một ai bị thương.
Mạnh Lan Đình thở phào nhẹ nhõm, quay người lại thì bắt gặp nụ cười tỏ tường của ta. Giây phút ấy, trong đáy mắt hắn lướt qua đủ mọi cảm xúc: kinh ngạc, phẫn nộ, tiếc nuối, bi thương. Hắn suýt chút nữa đã nổi giận vì thẹn.
Cuối cùng, tất cả hóa thành một nụ cười bất đắc dĩ: “Linh Tê, nàng lúc nào cũng thông tuệ như vậy.”
Một thần đồng nổi danh khắp làng trên xóm dưới, mười bảy tuổi đỗ Thám hoa, bốn mươi tuổi vào Nội các, trở thành vị Thủ phụ trẻ nhất của triều ta, vậy mà lại khen ta thông tuệ? Lòng ta ngọt ngào như vừa được ăn mật.
Thế là ta hỏi hắn: “Khi nào chàng đến nhà ta cầu thân?”
Nửa gương mặt của Mạnh Lan Đình khuất dưới bóng thưa của nhành hoa hạnh. Hắn khẽ thở dài. “Nàng hãy đợi một chút.”