Năm trước, trong cung ban thưởng.
Thái phu nhân liền bảo ta đem tấm bình phong khảm pháp lang vừa nhận được để làm quà cho nội thị đến truyền chỉ.
“Thương nhân các ngươi kiến thức nông cạn, không biết quy củ chốn kinh thành. Các công công tới truyền chỉ đều phải ban thưởng thật hậu hĩnh.”
“Tấm bình phong khảm pháp lang kia của ngươi trông cũng không tệ, cứ gói lại cho người ta mang về đi.”
Đây chẳng phải lần đầu bà ta làm vậy.
Bao năm qua, hễ thấy trong tay ta có món đồ nào hơi tốt một chút là bà ta lại tìm cách chiếm lấy.
Nếu ta không thuận, thể nào cũng phải nghe bà ta chì chiết.
“Một nữ nhi nhà buôn như ngươi thì hiểu cái gì? Giới huân quý chúng ta coi trọng nhất là lễ tiết qua lại. Nếu vì chút tính toán mà thất lễ, người mất mặt là cả Hầu phủ này!”
Nha hoàn Lan Chi bĩu môi: “Tấm bình phong đó là biểu thiếu gia đặc biệt mang từ hải ngoại về hiếu kính người, mới được hai ngày đã bị nhòm ngó rồi.”
Ta đáp: “Đổi lại được chút yên tĩnh, cũng tốt.”
Tiền ta không thiếu, của lạ ta chẳng hiếm. Nếu có thể tránh được phiền phức nhất thời, cũng đáng.
Trở về hậu viện, phu quân Tần Dật đang cùng hai thị thiếp uống rượu làm thơ.
Các thị thiếp thấy ta, vội đứng dậy hành lễ.
Tần Dật ghét ta làm phiền thi hứng của hắn, mặt không vui nói: “Có chính thất nhà ai như nàng, suốt ngày đầu đường xó chợ làm ăn buôn bán? Toàn thân một mùi tiền đồng, không thấy dung tục sao.”
Ta chỉ khẽ liếc hắn một cái, chẳng buồn để tâm.
Cũng chẳng nghĩ xem, nếu không có kẻ thương nhân toàn mùi tiền đồng này, hắn lấy đâu ra ngân lượng để mà gió hoa tuyết nguyệt?
Nhi tử Tần Tư Nguyên đang đọc sách trong thư phòng.
Ta muốn xem bài vở của nó.
Nó lại nói: “Mẫu thân không cần xem đâu. Thân là nữ nhi nhà buôn, chắc cũng chẳng hiểu được.”
Ta sững người.
Tần Tư Nguyên lại nghiêm mặt nói: “Sĩ, nông, công, thương. Thương nhân vốn dĩ thấp hèn!”
Ta siết chặt quyển sách mỏng trong tay, lặng đi hồi lâu.
Tần Tư Nguyên không hề cảm thấy mình sai.
“Mẫu thân, có thể trả sách lại cho con được không? Mùi tiền đồng trên người mẫu thân, e rằng sẽ làm vẩn đục sách của thánh hiền.”
Ta trả sách cho nó, không nói một lời rời khỏi thư phòng.
Cũng không nhìn lại đứa con mà thuở nhỏ ta từng bế trong lòng, dỗ dành suốt cả đêm dài.
Lan Chi thấy sắc mặt ta không tốt, bèn khuyên: “Phu nhân, Thế tử tuổi còn nhỏ chưa hiểu chuyện…”
Ta lạnh lùng đáp: “Nó đã chín tuổi rồi.”
Chẳng còn là đứa trẻ lên ba ngô nghê không biết gì nữa.
Nói cho công bằng, ta đối với phủ Thừa Ân Hầu vốn chẳng có bao nhiêu tình cảm.
Gia đình ta khởi nghiệp từ nghề buôn trên biển, năm đó đắc tội với tân Tuần phủ Quảng Châu nên việc làm ăn gặp trở ngại.
Đúng lúc ấy, Lão Thừa Ân Hầu bị người ta gài bẫy, nợ một món tiền khổng lồ lên đến trăm vạn lượng.
Hai bên tính toán. Kẻ muốn quyền, người cần tiền.
Thế là ta từ đất Quảng Châu xa xôi gả đến kinh thành.
Nhờ mối quan hệ này, việc kinh doanh của gia đình mới được yên ổn.
Còn phủ Thừa Ân Hầu cũng nhờ của hồi môn ta mang theo mà thuận lợi vượt qua cơn khủng hoảng, giữ được tước vị thế tập truyền đời.